Lịch sử DEFCON

Sau khi được thành lập, NORAD đã sử dụng các mức độ sẵn sàng khác nhau (Thông thường, Tăng cường, Tối đa) được chia nhỏ thành 8 tình trạng (chẳng hạn, mức độ sẵn sàng tối đa bao gồm hai tình trạng "Sẵn sàng phòng thủ không quân" và "Phòng thủ không quân khẩn cấp").[5] Tháng 10 năm 1959, Chủ tịch JCS đương nhiệm Nathan F. Twining thông báo với NORAD rằng "Canada và Mỹ đã ký một hiệp định về việc tăng cường mức độ sẵn sàng của các lực lượng NORAD trong các giai đoạn căng thẳng về quan hệ quốc tế."[5] Sau khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực vào ngày 2 tháng 10 năm 1959,[5] JCS đã xây dựng hệ thống DEFCON vào tháng 11.[2] Ban đầu, DEFCON 3 bao gồm hai tình trạng "Alpha" và "Bravo", DEFCON 2 bao gồm hai tình trạng "Charlie" và "Delta", đồng thời có một mức độ "Khẩn cấp" cao hơn DEFCON 1, bao gồm hai tình trạng "Phòng thủ khẩn cấp" ("Hot Box") và "Phòng thủ không quân khẩn cấp" ("Big Noise").[5]

DEFCON 2

Khủng hoảng tên lửa Cuba

Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, vào ngày 22 tháng 10 năm 1962, Quân đội Hoa Kỳ, ngoại trừ Lục quân Hoa Kỳ ở châu Âu (USAREUR), được ban bố tình trạng DEFCON 3. Ngày 24 tháng 10, mức độ này được nâng lên DEFCON 2 đối với riêng Bộ chỉ huy Không quân chiến thuật Hoa Kỳ (SAC). Tình trạng này kéo dài đến ngày 15 tháng 11.[6]

Chiến tranh vùng Vịnh

Ngày 15 tháng 1 năm 1991, JCS công bố tình trạng DEFCON 2 trong giai đoạn đầu của chiến dịch Desert Storm thuộc cuộc chiến tranh vùng Vịnh.[7] Ngoại trưởng Mỹ đương nhiệm James Baker đã cảnh báo rằng việc Iraq sử dụng vũ khí hóa học đối với liên quân sẽ dẫn đến hành động trả đũa hạt nhân.[8]

DEFCON 3

Chiến tranh Yom Kippur

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Ai Cập và Syria phối hợp tiến hành một cuộc tấn công nhằm vào Israel và gây ra cuộc chiến tranh Yom Kippur. Quan ngại rằng Liên minh Xô Viết sẽ can thiệp, Mỹ đã ban bố tình trạng DEFCON 3 đối với các lực lượng vũ trang bao gồm Bộ chỉ huy Không quân Chiến thuật, Bộ tư lệnh Phòng không Lục địa, Bộ tư lệnh ở châu ÂuHạm đội 6 vào ngày 25 tháng 10. Trong những ngày tiếp theo, các lực lượng này lần lượt quay trở về trạng thái thông thường mà cuối cùng là Hạm đội 6 vào ngày 17 tháng 11.[9]

Chiến dịch Paul Bunyan

Sau khi hai quân nhân Mỹ bị quân đội Triều Tiên sát hại tại Khu vực An ninh Chung vào tháng 8 năm 1976, mức độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Mỹ tại Hàn Quốc đã được nâng lên DEFCON 3. Mức độ này được duy trì trong suốt chiến dịch Paul Bunyan diễn ra ngay sau đó.[10]

Vụ tấn công 11 tháng 9

Trong vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ đương nhiệm Donald Rumsfeld đã công bố mức DEFCON 3 đồng thời cảnh báo khả năng nâng lên DEFCON 2 (tuy điều này đã không xảy ra).[11]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: DEFCON http://www.airspacemag.com/military-aviation/go-de... http://foreignpolicy.com/2013/12/13/our-red-lines-... http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB443/doc... http://muse.jhu.edu/login?auth=0&type=summary&url=... http://www.911commission.gov/report/911Report.pdf http://www.dod.mil/pubs/foi/operation_and_plans/Nu... http://www.dtic.mil/doctrine/jel/new_pubs/jp1_02.p... http://www.northcom.mil/Portals/28/Documents/Suppo... //dx.doi.org/10.2307%2F2538543 http://www.nautilus.org/foia/NegotiatingwithNK.pdf